Đó cũng chính là nguyên nhân cốt lõi dẫn đến những xung đột vì quy hoạch treo trong thời gian qua. Làm thế nào để vừa đảm bảo phát triển kinh tế- xã hội, vừa đảm bảo quyền lợi của người dân, khi Nhà nước triển khai quy hoạch, là nội dung trao đổi giữa ĐTTC với PGS.TS Nguyễn Minh Hòa.
– Là một chuyên gia đô thị học, có nhiều công trình nghiên cứu về đô thị hóa tại TPHCM, ông nhận xét như thế nào về công tác quy hoạch thời gian qua?
PGS.TS Nguyễn Minh Hòa: – Sau gần 30 năm tiến hành tái đô thị hóa (tính từ 1990), TPHCM đã gặt hái được nhiều thành công. Rõ nét nhất là nhiều công trình hạ tầng giao thông, xã hội được ngân sách TP và Trung ương, nguồn vốn từ doanh nghiệp… đầu tư, tạo nên diện mạo đô thị mới góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của TP.
Cụ thể, các công trình như Đại lộ Đông Tây, đường Phạm Văn Đồng, Đại lộ Nguyễn Văn Linh… cùng nhiều dự án nhà ở đô thị, trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí ra đời, là kết quả tất yếu của quá trình đô thị hóa tạo nên sức sống mới cho TPHCM.
Tuy nhiên bên cạnh mặt tích cực đã phát sinh những mặt trái vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước. Trong đó phải kể đến việc xây dựng tự phát, sử dụng đất công lãng phí, lợi ích nhóm trong quy hoạch – được gọi là “tham nhũng chính sách”, không hiện thực hóa được quy hoạch – hay gọi là quy hoạch treo, trong nhiều trường hợp dẫn đến xung đột giữa người dân với cơ quan công quyền.
Những tiêu cực này đã được “ủ” từ lâu, nhưng gần đây đã bộc lộ mạnh hơn, như việc sử dụng, giao đất công tùy tiện không qua đấu giá, việc lạm quyền xin – cho bất động sản. Một trong những vấn đề nổi cộm thời gian qua là quy hoạch treo.
Theo đó, nhiều dự án, đồ án được phê duyệt, thông qua nhưng vì nhiều lý do chậm triển khai hoặc không khả thi, dẫn đến treo luôn quyền lợi của người dân, gây bức xúc cho xã hội.
– Như vậy, việc xung đột trong quá trình quy hoạch là do quyền lợi của người dân không được đảm bảo, hay năng lực của chính quyền còn hạn chế khi làm công tác quy hoạch, thưa ông?
– Có nguyên nhân từ cả 2 phía, nhưng chủ yếu từ chính quyền. Đó là việc có khá nhiều đồ án quy hoạch lấy được, bất chấp quyền lợi của người dân. Một quyết định hành chính lạnh lùng, cái khoát tay, nét vẽ của người có quyền có thể mang lại hậu quả nặng nề cho rất nhiều gia đình.
Có lẽ hiếm nơi nào trên thế giới lại có tình trạng tạm cư hàng chục năm ngay trên đất của mình, khi không được làm bất cứ điều liên quan đến cư trú (nhà ở) và mưu sinh (canh tác). Để hóa giải nguồn cơn xung đột này phải đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người bị thu hồi đất, của người có đất nằm trong khu vực bị quy hoạch.
Không có lý do gì quy hoạch xong rồi để đó chẳng làm gì lại còn hạn chế quyền lợi hợp pháp của người dân, như không được cấp phép xây dựng chính, không được bồi thường khi công trình được cấp phép tạm, hạn chế chuyển nhượng…
– Hạn chế lớn nhất trong công tác quy hoạch hiện nay là gì, thưa ông?
– Nói thẳng quy hoạch của chúng ta xưa nay là quy trình ngược. Lẽ ra quy hoạch kinh tế-xã hội đi trước sau đó mới đến quy hoạch không gian. Nhưng chúng ta làm quy hoạch không gian trước, nhà quy hoạch thỏa sức tưởng tượng ra nơi đó sẽ là khu công nghiệp, trung tâm tài chính hiện đại, khu đại học… và hiển thị ra bằng những hình vẽ xanh đỏ, sau đó treo lên.
Nhưng khi triển khai thực tế, những vùng quy hoạch đó không hấp dẫn nhà đầu tư, không có khả năng sinh lời, kêu gọi mãi mà không ai đến, còn người dân bị rơi vào “bẫy quy hoạch”. Hậu quả, họ phải chờ đợi mòn mỏi năm này qua năm khác. Điển hình như dự án khu đô thị sinh thái Bình Quới – Thanh Đa trên bán đảo Thanh Đa bị treo suốt 26 năm cũng là bấy nhiêu năm người dân sống trong cảnh khốn đốn.
Thực trạng chung của các khu quy hoạch treo là người dân trong vùng không sửa sang, xây cất dù nhà bị đổ nát; đất bỏ hoang không được trồng trọt gì; không được thực hiện giao dịch từ mua bán, sang nhượng đến thế chấp vay ngân hàng. Có nghĩa, khi quy hoạch bị treo, số phận người dân cũng bị treo lơ lửng, hết đường mưu sinh, trạng thái tâm lý bị dồn nén, tình cảnh thật cùng cực.
Bên cạnh đó, khả năng dự báo của các nhà quy hoạch chúng ta hiện nay không cao. Vì thế mới có chuyện mỗi khi có sự cố về ô nhiễm (nhà máy điện than, bãi rác quá tải), người dân cứ phản ứng lại cho là không lường hết được, đổ thừa cho thiếu năng lực.
Người làm quy hoạch phải tính đến tất cả rủi ro xảy ra để có các phương án triệt tiêu và giảm thiểu đến mức nhỏ nhất, phải dự tính được diễn tiến dự án sau 15-20 năm, thậm chí xa hơn nữa. Ngoài ra, việc áp giá đền bù thu hồi đất khi công bố quy hoạch còn trên giấy và giá đất đền bù so với giá thị trường chênh lệch nhau hàng chục lần, khiến người dân bất bình.
– Ông có thể chia sẻ quan điểm về việc làm thế nào để công tác quy hoạch “vẹn cả đôi đường”?
– Điều quan trọng nhất là phải công khai, minh bạch về quy hoạch, kiến trúc, giá đền bù giải tỏa, phương thức tái định cư, những chủ thể tham gia khai thác bất động sản sau khi dự án hoàn thành. Nghĩa là trên tất cả phương diện, từ lợi ích được hưởng và đến những rủi ro và thiệt thòi người dân sẽ phải gánh chịu.
Thực tế lâu nay đa phần chủ các dự án chỉ trao cho dân “bánh vẽ”, thực tế diễn ra phũ phàng hơn nhiều, làm nảy sinh chuyện kiện tụng kéo dài. Thêm nữa phải thực lòng tham khảo ý kiến của người dân và chuyên gia, tôn trọng việc đánh giá dự án, phản biện khoa học nhằm giảm thiểu xung đột không đáng có.
– Xin cảm ơn ông.
Đã đến lúc Hiến pháp phải công nhận quyền tư hữu đất đai của người dân là quyền thiêng liêng và cũng là quy luật của kinh tế thị trường. Chỉ khi ấy người dân mới có quyền định đoạt đất đai của mình và việc quy hoạch dựa trên nguyên tắc các bên cùng có lợi, những khái niệm “áp giá”, “thu hồi” không còn tồn tại. Nhà nước, nhà đầu tư muốn có đất phải đàm phán với dân một cách sòng phẳng, minh bạch. |