Hiện diện tại Việt Nam từ trước khi Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận, 27 năm qua General Electric (GE) gắn liền với quá trình mở cửa hội nhập và phát triển kinh tế của Việt Nam.
Ngày 14.12.1992, tổng thống George Bush lần đầu tiên cho phép các công ty Hoa Kỳ có thể mở văn phòng đại diện tại Việt Nam. Sáu tháng sau, GE trở thành một trong số ít công ty Hoa Kỳ đầu tiên quay trở lại Việt Nam.
Ngày 3.2.1994, Tổng thống Bill Clinton thông báo quyết định bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam. Sự kiện này đã mở ra một hành trình mới cho riêng GE và quan hệ kinh doanh song phương nói chung của các doanh nghiệp giữa hai nền kinh tế Việt Nam – Hoa Kỳ.
GE, tập đoàn công nghiệp của Hoa Kỳ có lịch sử gần 130 năm, hiện hoạt động tại Việt Nam ở bốn lĩnh vực chính: truyền tải điện, năng lượng, hàng không và thiết bị y tế. Cũng như các công ty Hoa Kỳ giai đoạn đầu khi Việt Nam còn bị cấm vận, GE góp phần vận động chính phủ nới lỏng chính sách thắt chặt kinh tế với Việt Nam, tạo điều kiện để công ty Hoa Kỳ cạnh tranh công bằng với các công ty từ các quốc gia khác.
Ông Andre Sauvageot, cựu trưởng đại diện GE tại Việt Nam (1993-2003), trong các bài thuyết trình đại diện tiểu ban thương mại doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam thời điểm đó, gửi Forbes Việt Nam tham khảo hai bút lục năm 2000 và 2002, liên tục kêu gọi Mỹ đổi mới chính sách thương mại với Việt Nam.
“Kể từ khi Eximbank Hoa Kỳ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký thỏa thuận khung (1999), GE đã nhanh chóng tăng khả năng cạnh tranh với các đề xuất tài trợ trực tiếp cho khách hàng tại Việt Nam được chấp thuận,” theo thuyết trình năm 2000.
“Nhờ quyết định bãi bỏ áp dụng điều khoản JacksonVanik (điều khoản năm 1974 trong luật liên bang hạn chế thương mại với các quốc gia chưa có nền kinh tế thị trường), GE có vị thế tốt hơn để cạnh tranh tại thị trường đang phát triển Việt Nam,” theo thuyết trình năm 2002.
Ông Andre Sauvageot, trưởng đại diện đầu tiên của GE tại Việt Nam (từ 1993) là một cựu quân nhân Mỹ, về sau là phiên dịch cho các phái đoàn Hoa Kỳ sang Việt Nam đàm phán về hành trình bình thường hoá quan hệ hai nước và tìm kiếm lính Mỹ mất tích trong chiến tranh. Trọng trách của ông khi rời GE năm 2003 đã được trao lại cho nữ tổng giám đốc người Việt Nguyễn My Lan.
CEO Phạm Hồng Sơn sinh năm 1979, xuất thân là kỹ sư điện của đại học Bách khoa Hà Nội, sau khi tốt nghiệp ông ở lại trường nghiên cứu giảng dạy năm năm rồi gia nhập các công ty nước ngoài trong lĩnh vực tự động hóa. Sơn gia nhập GE từ 2010 bắt đầu với vai trò giám đốc phát triển thị trường, sau đó dẫn dắt mảng năng lượng tái tạo và đảm nhận trọng trách CEO GE Việt Nam từ người tiền nhiệm vào năm 36 tuổi (2015), đồng thời là người lãnh đạo chủ chốt của mảng thiết bị y tế.
“Hiện 100% nhân sự của GE là người Việt, nếu có người không phải quốc tịch Việt Nam thì chỉ là chuyên gia làm việc rất ngắn hạn và chắc chắn không ai ở vị trí lãnh đạo,” ông Phạm Hồng Sơn nói với Forbes Việt Nam trong cuộc phỏng vấn tại văn phòng GE ở khu đô thị Phú Mỹ Hưng, TP.HCM.
Ông chia sẻ, chính sách nhất quán trên toàn cầu của GE là địa phương hóa nguồn nhân tài và lãnh đạo. “Tôi may mắn nằm trong tổ chức có chủ trương nhân sự như vậy, được đào tạo và được trao cơ hội,” ông Sơn nói.
NHỮNG NĂM GIỮA THẬP NIÊN 1990, GE BẮT ĐẦU những hợp đồng thương mại đầu tiên khi vào Việt Nam: GE Medical Systems phải cạnh tranh gay gắt với các công ty quốc tế của Đức và Nhật (vốn không bị hạn chế thương mại) để bán các thiết bị y tế cao cấp trị giá chỉ 1,3 triệu USD (1993) được Ngân hàng Thế giới tài trợ; máy nén khí đầu tiên cho dự án vận chuyển khí ngoài khơi Bạch Hổ (1995); hợp đồng đầu tiên cho thuê ba máy bay Boeing 767-300ER mới cho Vietnam Airlines…
Ngày nay những động cơ máy bay tiên tiến của GE chiếm hơn nửa số máy bay trong khối ASEAN, và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Sử dụng các công nghệ độc quyền, GE Aviation cung cấp cho ngành hàng không Việt Nam những sản phẩm và dịch vụ quy mô lớn.
Cuối năm 2013, GE ký cung cấp 40 động cơ GEnx cho đội Boeing 787 Dreamliner của Vietnam Airlines và một hợp đồng khác cung cấp 40 động cơ CFM cho máy bay A320/321 CEO của VietJet Air. Trong chuyến thăm của tổng thống Mỹ Barack Obama tới Việt Nam năm 2017, VietJet ký hợp đồng mua 100 máy bay Boeing B737-MAX sử dụng động cơ LEAP-1B của CFM, trị giá 5,3 tỉ USD theo công bố của hãng.
Năm 2010, nhà máy sản xuất tua bin máy phát điện gió Hải Phòng do GE đầu tư đi vào hoạt động. Tính đến nay nhà máy này xuất khẩu hơn 6.000 hệ thống máy phát điện gió, tạo giá trị xuất khẩu hằng năm hơn 300 triệu USD. “Điều quan trọng đây là một trong bảy nhà máy theo mô hình thông minh của GE toàn cầu, là thành công điển hình của GE trên thế giới, tạo tiền đề cho GE đầu tư vào các lĩnh vực khác và tiếp tục cân nhắc mở rộng sản xuất và phát triển thị trường tại Việt Nam,” ông Sơn cho biết.
“Các lĩnh vực khác” mà ông Sơn đề cập chính là chuỗi cung ứng sản xuất GE tại Việt Nam không ngừng mở rộng. Năm 2015, GE mua Alstom – tập đoàn năng lượng và truyền tải điện của Pháp vào Việt Nam từ năm 1992 với những dự án quy mô lớn, qua đó mở rộng đầu tư vào xưởng dịch vụ Phú Mỹ, đồng thời liên doanh Alstom với EVN trở thành một phần của GE từ cuối 2015.
Steve Bolze, chủ tịch và CEO của GE Power lúc đó khẳng định: “Việc sáp nhập Alstom giúp GE cung cấp giải pháp đồng bộ cho các nhà máy điện và nhìn thấy nhu cầu ngày càng lớn của thị trường tua bin khí công suất lớn cho các nhà máy điện khí.”
Năm 2016, GE Power tiếp tục mua nhà máy sản xuất lò hơi thu hồi nhiệt (HRSG) Doosan E&C tại Dung Quất, mở rộng chuỗi sản xuất của GE trên bản đồ ngành công nghiệp Việt Nam. Thương vụ này giúp GE Power đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về các giải pháp sử dụng công nghệ HRSG cho các nhà máy điện chu trình hỗn hợp, để tiếp tục mở rộng dịch vụ cung cấp cho khách hàng.
Cuối năm 2012, GE thành lập trung tâm Thiết kế Kỹ thuật Việt Nam (GE VEC) đầu tiên với khoảng 40 kỹ sư, cung cấp các thiết kế sản phẩm và dịch vụ ứng dụng tập trung vào lĩnh vực dầu mỏ và khí đốt tại Việt Nam và các khu vực lân cận.
Tháng 7.2017, Baker Hughes, một công ty của GE hoàn tất sáp nhập bộ phận GE Oil & Gas và trở thành nhà cung cấp các thiết bị, dịch vụ và giải pháp kỹ thuật số xuyên suốt các lĩnh vực phát triển của ngành dầu khí.
Ông Sơn chia sẻ với Forbes Việt Nam: “Tầng lớp trung lưu tại Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng, kéo theo nhu cầu cao cấp trong chăm sóc y tế rất lớn. Hàng năm nhiều người Việt vẫn ra nước ngoài điều trị, các doanh nghiệp đang đầu tư vào để giữ bệnh nhân ở lại trong nước và các mô hình du lịch y tế đang được phát triển để thu hút bệnh nhân tại các nước phát triển đến du lịch và điều trị với chi phí vừa phải”.
Hơn 30% nhà máy điện Việt Nam hiện đang sử dụng các thiết bị chính của GE. “Dấu chân” GE có mặt trên hầu hết các hệ thống truyền tải điện quốc gia từ Nam tới Bắc, từ đồng bằng đến miền cao.
Dấu ấn GE trong ngành năng lượng xuất hiện trong các giai đoạn của ngành điện khí Việt Nam. Năm 1995, GE bàn giao tua bin khí công suất lớn đầu tiên cho nhà máy điện Phú Mỹ 2, sau đó cung cấp cho nhà máy điện Phú Mỹ 4, nhà máy điện chu trình hỗn hợp Nhơn Trạch 1. Mười năm sau, 2015, GE cung cấp hai lò tầng sôi tuần hoàn (CFB) lớn nhất Việt Nam để cung cấp năng lượng than sạch cho lưới điện quốc gia tại Nhiệt điện Thăng Long.
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) cũng đã lựa chọn hai bộ tua bin hơi nước và máy phát điện có hiệu suất cao của GE cho nhà máy nhiệt điện Long Phú 1 ở Sóc Trăng công suất 1.200 MW điện, đủ cung cấp cho khoảng bốn triệu hộ dân.
Trong chuyến thăm của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đến Mỹ tháng 5.2017, GE công bố một loạt thỏa thuận hợp tác trị giá 2 tỉ USD nhằm tăng sản lượng điện nội địa của Việt Nam thêm 2,3 GW, trong đó có mục tiêu phát triển các dự án điện khí tổng công suất 1.500 MW và thỏa thuận phát triển chung trang trại điện gió Phú Cường 800MW tại Sóc Trăng.
ÔNG SƠN NÓI VỚI FORBES VIỆT NAM không giấu vẻ tự hào: “GE là nhà cung cấp thiết bị điện gió có mặt sớm nhất và cung cấp các hệ thống thiết bị và trang trại điện gió lớn nhất Việt Nam.”
Thiết bị điện gió là một phần quan trọng trong lĩnh vực năng lượng tái tạo mà GE đang theo đuổi với danh mục sản phẩm sâu rộng nhất trong ngành công nghiệp, năng lượng tái tạo và số lượng thiết bị đã lắp đặt tạo ra nguồn năng lượng sạch lên tới 370 GW, lớn nhất trên toàn thế giới.
Trong vai trò nhà cung cấp giải pháp và thiết bị cho điện gió và điện mặt trời lớn nhất Việt Nam, ông Sơn cho biết, GE đang kỳ vọng ở thị trường này trong bối cảnh chính phủ Việt Nam có chính sách khuyến khích năng lượng tái tạo. Hai lĩnh vực điện mặt trời, điện gió trong những năm tới sẽ rất sôi động, là những lĩnh vực GE quan tâm và “đang làm việc với đối tác và khách hàng để đẩy mạnh”.
GE Renewable Energy đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển trang trại điện gió đầu tiên của Việt Nam tại tỉnh Bạc Liêu với 62 tua bin gió có công suất trên 99MW đã hòa lưới điện quốc gia năm 2013. Tiếp nối khởi đầu này là sự hiện diện ở các dự án điện gió Tây Nguyên, thủy điện Đa Nhim (Lâm Đồng), thủy điện Lai Châu, điện gió Phú Cường (Sóc Trăng), điện gió Mũi Né, điện gió Phương Mai 1…
Chính phủ đang có hai lựa chọn: phát triển nguồn năng lượng tái tạo và phát triển điện khí và khí hóa lỏng, và đã đưa ra những chiến lược lớn cho hai lĩnh vực này, trở thành lựa chọn tất yếu của Việt Nam để đạt được kỳ vọng tăng trưởng nhanh và lớn.
“Đây là thế mạnh của GE nên chúng tôi rất kỳ vọng vào sự phát triển của hai lĩnh vực năng lượng chủ chốt (điện khí và năng lượng tái tạo), các chính sách trong lĩnh vực này là khá hấp dẫn, chưa kể mảng năng lượng tái tạo hiện đang phát triển trên bờ và trong tương lai còn tiềm năng ngoài khơi để khai thác,” ông Sơn phân tích và tự tin: “Đây là thế mạnh của GE nên là tiềm năng cho GE phát triển.”
Các sản phẩm GE mang hàm lượng công nghệ cao và giá trị lớn, nên khi vào Việt Nam thách thức lớn nhất là làm thế nào thuyết phục khách hàng đánh giá đúng hàm lượng công nghệ và đúng giá trị mang lại về lâu dài trên toàn bộ vòng đời dự án/sản phẩm thay vì “chỉ so sánh về giá trước mắt”.
Những rào cản của thị trường luôn luôn có, tùy từng giai đoạn nhưng ông Sơn tin rằng, “đối với GE mình đại diện của khách hàng nhưng đối với khách hàng mình đại diện GE, các khoảng cách sẽ được người GE nỗ lực rút ngắn.”
Trong kế hoạch dài hạn tại Việt Nam, CEO Phạm Hồng Sơn cho biết, GE sẽ đầu tư mở rộng các hoạt động sản xuất nằm trong chuỗi cung cứng toàn cầu, song song với việc luôn tìm kiếm cơ hội để phát triển thị trường Việt Nam. “Việc phát triển thị trường có thể theo phương thức GE cùng đầu tư vào các dự án điện khí, dự án LNG hoặc các dự án điện gió cả trên bờ và ngoài khơi. Chúng tôi vừa là nhà đầu tư vừa đi tạo ra thị trường cho chính mình,” ông Sơn tiết lộ.
Phương thức điều hành và tương lai phát triển GE được ông Sơn mô tả ở hai trọng tâm: Một, tạo ra môi trường để mọi người làm việc thuận lợi và hiệu quả cao nhất. Hai, luôn nhìn vào đội ngũ để thiết lập quy trình, đặt nhân sự đúng vào vị trí họ làm việc tốt nhất và kết nối họ với nhau.
“Thế mạnh của GE là một tập đoàn đa quốc gia với nhiều lĩnh vực hoạt động trên một hệ thống quy trình nhất quán nhưng tựu trung vẫn là con người, quan trọng nhất vẫn là kết nối nhân tài, cân bằng nguồn lực, hỗ trợ khách hàng và nuôi dưỡng thị trường,” ông Sơn nói.