Nếu Covid-19 không bất ngờ ập đến, có lẽ 2016-2020 sẽ là kế hoạch đầu tiên của 3 kế hoạch 5 năm gần đây nhất, chỉ tiêu GDP có thể cán đích. Cú sốc mang tên Covid-19 không chỉ khiến những đánh giá về năm 2020, về cả nhiệm kỳ 5 năm bỗng nhiên “đứt gãy”, mà quan trọng hơn, kế hoạch cho một giai đoạn mới đòi hỏi cả các nhà lập pháp cũng như hành pháp phải “mới” hơn, linh hoạt hơn.
Bài 3: Kế hoạch 5 năm phải chứa tham vọng đủ lớn
Dù GDP đều “hụt hơi” ở cả 3 kế hoạch 5 năm trước, dù Covid-19 vẫn là một ẩn số lớn, thì Kế hoạch Phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021 – 2025 vẫn phải chứa tham vọng đủ lớn để đưa Việt Nam ra khỏi cả “cơn địa chấn Covid-19” và “bẫy thu nhập trung bình”.
Bài học kinh nghiệm qua 3 kế hoạch 5 năm
“Tăng trưởng không phải bao giờ cũng theo đường thẳng, mà thực tế là theo hình sin, thậm chí có lúc đảo chiều. Đây là vấn đề cần nhận thức cho đúng khi xác định các mục tiêu kể cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, cũng là bài học kinh nghiệm cần nêu trong đánh giá kế hoạch 5 năm 2016-2020”, Phó chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển nhìn nhận.
Trước khi trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 10 (khai mạc ngày 20/10 tới), báo cáo đánh giá sơ bộ tình hình thực hiện Nghị quyết số 142/2016/QH13 của Quốc hội về Kế hoạch Phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016-2020 được đặt lên bàn nghị sự của nhiều cuộc làm việc giữa các cơ quan, đoàn công tác của Quốc hội với nhiều bộ, ngành, địa phương.
Phó chủ tịch Phùng Quốc Hiển nhấn mạnh, Covid-19 làm đảo lộn tất cả, chưa từng có từ đại khủng hoảng 1930 đến nay.
Trong bối cảnh đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá, việc thực hiện kế hoạch 5 năm 2016- 2020 đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực, tạo nhiều dấu ấn nổi bật.
Trong tổng số 21 chỉ tiêu được giao tại Nghị quyết số 142/2016/QH13, có đến 14/18 chỉ tiêu có đánh giá sơ bộ đạt và vượt. Có 4 chỉ tiêu không đạt, gồm: tốc độ tăng GDP, GDP bình quân đầu người, tỷ lệ lao động qua đào tạo và tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị. Nguyên nhân chủ yếu là tác động của Covid-19.
Riêng về tốc độ tăng GDP, giai đoạn 2016-2019 ở mức bình quân 6,8%, bình quân 5 năm 2016 – 2020 ước đạt 5,8% và Việt Nam thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới.
Về con số này, trước đó, tại một số diễn đàn do các cơ quan của Quốc hội tổ chức, cả chuyên gia và đại biểu Quốc hội đều cho rằng, phải tách riêng năm 2020 để đánh giá cho đúng. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cũng đồng quan điểm và cho biết đã dự kiến tách thành 2 giai đoạn để đánh giá.
“Tách như thế sẽ thấy rõ những thành tựu, nỗ lực của giai đoạn 2016-2019. Năm 2020, do ảnh hưởng của Covid-19 nên là bất khả kháng, nhưng cũng đã kéo kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm xuống”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.
Ngược thời gian nhìn lại, tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2011-2015 đạt 5,91%/năm (kế hoạch đề ra là 7-7,5%). Bình quân thời kỳ 2006-2010 đạt 7,01%/năm (kế hoạch là 7,5-8%). Như vậy, liên tiếp 3 kế hoạch 5 năm, GDP đều không thể về đích. Kinh nghiệm gì được rút ra từ cả quá trình này là điều đã được Phó chủ tịch Phùng Quốc Hiển lưu ý, như trên đã nói.
2 năm phục hồi, 3 năm tăng tốc
Cuối tháng 10/2020, cùng với kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội 5 năm tới, những kế hoạch tài chính, đầu tư công nhiều triệu tỷ đồng cho trung hạn cũng sẽ được Quốc hội bàn thảo. Khi đó, cú sốc Covid-19 thêm một lần được nhận diện đầy đủ hơn, chuẩn bị cho những quyết sách phục hồi và tăng tốc của nền kinh tế.
Thống nhất nhận định, đánh giá về tình hình thực hiện Kế hoạch Phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020, thấy hết những kết quả, thành tích mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được và những khó khăn, thách thức cần phải vượt qua, đó là yêu cầu được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đặt ra trong phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương 13 vừa qua.
Trước đó, tại cuộc làm việc với đoàn công tác của Quốc hội, phác thảo kế hoạch 2021-2025 đã tiến thêm một bước, khi mục tiêu kinh tế chủ yếu được xác định là tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm khoảng 6,5-7%. Bên cạnh đó, GDP bình quân đầu người đến năm 2025 đạt 4.700-5.000 USD; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt trên 25%; kinh tế số đạt khoảng 20% GDP.
Theo một số dự tính ban đầu, có thể kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn tới cũng sẽ được chia làm 2 giai đoạn. Theo đó, 2 năm đầu là phục hồi, 3 năm sau là tăng tốc. Và mức tăng GDP 6,5-7% cũng chưa được coi là “tham vọng”.
Thành viên Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng, TS. Trần Du Lịch cho rằng, trong kế hoạch 5 năm 2021-2025, có thể đặt mục tiêu tăng trưởng 7-7,5%/năm. Chương trình trung hạn 2 năm 2021-2022, tập trung vào mục tiêu phục hồi tăng trưởng hậu Covid -19 và tạo điều kiện để doanh nghiệp tái cơ cấu thị trường và công nghiệp, nên tăng trưởng GDP có thể dưới 7%. Nhưng từ năm 2023, tốc độ tăng trưởng sẽ cao hơn, nếu chúng ta đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả về thể chế và tận dụng được các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương.
Ở 2 năm phục hồi, một số chuyên gia cho rằng, Nhà nước là người duy nhất có thể tăng chi để cứu doanh nghiệp, đảm bảo an sinh xã hội. Thị trường có 3 người chơi là Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, thì hiện nay, Nhà nước là người duy nhất có thể chi tiêu nghịch chu kỳ (mở rộng chính sách tài khoá trong thời kỳ kinh tế suy giảm – PV).
“Từ trước, ta vẫn chi tiêu thuận chu kỳ, giờ nghịch chu kỳ là cần thiết”, ông Nguyễn Tiên Phong, chuyên gia Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) góp ý.
Còn nhiều nữa những đóng góp cho cả hai giai đoạn phục hồi và tăng tốc, song khá nhiều ý kiến đều nhấn mạnh tầm quan trọng của 2 giải pháp đầu tiên được nêu tại báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Đó là tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Những vấn đề rất lớn này đã nằm ở trọng tâm của nhiều bản kế hoạch hàng năm và 5 năm, nhưng kết quả chưa thực sự rõ rệt.
Mọi nỗ lực riêng lẻ sẽ không hiệu quả
Không đổi mới thể chế, khó tạo dựng niềm tin là điều được TS. Trần Du Lịch nhiều lần nhấn mạnh từ chục năm trước. Ở thời điểm quan trọng này của đất nước, ông Lịch cho rằng, hoàn thiện và đồng bộ hóa thể chế kinh tế thị trường là động lực của động lực.
Hạn chế trên giấy có thấm vào tư duyBáo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về kết quả thực hiện Kế hoạch Phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016-2020, theo Phó chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển, là đầy đủ, toàn diện và có chiều sâu. “Có lẽ cả nhiệm kỳ chưa có báo cáo nào thẳng thắn từng câu một như vậy, 40 trang đánh giá kết quả, 15 trang đánh giá hạn chế. Tôi đã đọc rất kỹ, gạch chân từng điểm hạn chế, nhưng hạn chế trên giấy có thấm vào tư duy không là vấn đề khác”, ông Hiển tâm tư.
Đặt vấn đề này, bởi theo ông Hiển, trên thực tế, tổ chức thực hiện các yêu cầu của Quốc hội còn có vấn đề. “Có những việc là trách nhiệm của hai ông mà ông này đá cho ông kia, quả bóng đá đi đá lại, đá cả vào trọng tài thì trọng tài phải nhảy lên thôi”, ông Hiển nhìn nhận.
“Câu hỏi được đặt ra là, trong nền kinh tế hiện nay, các lĩnh vực nào có nhiều dư địa để phát triển. Dư địa không phải ở những ngành kinh tế cụ thể, mà chính là ở thể chế. Nền kinh tế Việt Nam còn quá nhiều dư địa để phát triển, nếu tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, mà trước hết là tư duy Nhà nước làm thay thị trường và mặt khác là thái cực bắt thị trường làm thay Nhà nước (lạm dụng hình thức xã hội hóa)”, ông Lịch nêu.
Theo ông Lịch, nếu thiếu tư duy hệ thống về quản lý nhà nước phù hợp với sự vận hành của thể chế kinh tế thị trường, thì mọi nỗ lực cải cách riêng lẻ sẽ không mang lại hiệu quả, mà tính mâu thuẫn và phức tạp ngày càng tăng thêm. Điển hình nhất là hàng chục đạo luật về kinh tế mà Quốc hội mới ban hành tại nhiệm kỳ trước, thì nhiệm kỳ này phải sửa vì mâu thuẫn, xung đột khi thực thi.
Việc hoàn thiện thể chế thời gian tới, theo ông Lịch, cần dựa trên 5 nhóm quan điểm.
Thứ nhất, làm rõ và minh định chức năng của Nhà nước, với tư cách là một trong 3 chủ thể của kinh tế thị trường (Nhà nước, người sản xuất và người tiêu dùng hay Nhà nước, doanh nghiệp và người dân). Nhà nước không làm thay thị trường và làm thay người dân trong quan hệ dân sự. Đây là cơ sở để xây dựng bộ máy công vụ và hành chính công quyền.
Thứ hai, cần xóa bỏ tư duy “cơ cấu kinh tế địa phương”, tách biệt hoạt động kinh tế với hành chính công quyền; hình thành các vùng kinh tế; xây dựng các chương trình phát triển quốc gia thay cho các loại chính sách ưu đãi tràn lan.
Thứ ba, xóa bỏ tư duy lồng ghép công vụ quốc gia và công vụ địa phương. Không có công vụ nhà nước chung chung và không lồng ghép công vụ chính là nền tảng xây dựng mô hình chính quyền địa phương; cụ thể hóa cơ chế phân cấp, phân quyền và ủy quyền giữa trung ương và địa phương theo từng lĩnh vực quản lý nhà nước; kiểm soát lạm quyền; bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương và phát huy vai trò của các cơ quan dân cử địa phương.
Theo ông Lịch, cần tách biệt ngân sách quốc gia và ngân sách địa phương (quan điểm thứ tư). Theo đó, cần xóa cơ chế “ngân sách lồng ghép” gọi chung là ngân sách nhà nước hiện nay. Đây là cơ sở để cải cách nền tài chính quốc gia, xóa cơ chế xin – cho về ngân sách.
Quan điểm thứ năm của vị chuyên gia kinh tế dày dặn kinh nghiệm lập pháp là phải phát huy vai trò của các định chế phi lợi nhuận thay cho quan điểm xã hội hóa về dịch vụ công như hiện nay. Nhà nước cung cấp dịch vụ công ích, nhất là lĩnh vực y tế, giáo dục, nghiên cứu khoa học, công nghệ một phần gián tiếp qua các định chế phi lợi nhuận.
Thể chế kinh tế thị trường không thể vận hành trôi chảy bởi một bộ máy hành chính về bản chất gắn với thuộc tính của nền kinh tế kế hoạch hóa chỉ huy xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương như hiện nay. Tính thống nhất của nền hành chính quốc gia đã biến thành tính đồng nhất của bộ máy hành chính. Ông Lịch thẳng thắn cho rằng, đây là nguyên nhân sâu xa nhất của tình trạng bộ máy hành chính cồng kềnh, kém hiệu quả, hiệu lực.
(Còn tiếp)
Nguồn dẫn: Báo Đầu tư
Link bài gốc: https://baodautu.vn/kinh-te-5-nam-va-cu-soc-covid-19—bai-3-ke-hoach-5-nam-phai-chua-tham-vong-du-lon-d130952.html