Hiện thực hóa khát vọng hay giấc mơ về một Việt Nam Thịnh Vượng đòi hỏi những nỗ lực phi thường và chuyển biến vượt bậc, đột phá, theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan…
Đánh giá thực trạng khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay tại hội thảo tham vấn về chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2021 – 2030) do Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tổ chức sáng 28/10, bà Phạm Chi Lan, chuyên gia kinh tế cho biết, tốc độ dịch chuyển doanh nghiệp từ nhỏ lên vừa rất chậm, và tỷ lệ chuyển lên được cũng rất thấp.
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN “KHÔNG CHỊU LỚN” VÌ BỊ CHÈN ÉP
Theo bà Lan, vài năm gần đây có thêm hiện tượng hàng trăm doanh nghiệp tư nhân phải mất 10-20 năm mới phát triển lên quy mô vừa, nhưng khi tương đối thành công lại quyết định rút khỏi thị trường, bán hoặc sáp nhập doanh nghiệp của mình vào doanh nghiệp khác, chủ yếu là doanh nghiệp FDI.
Tình trạng “không chịu lớn” và không muốn chính thức hóa hoạt động kinh doanh của số đông doanh nghiệp tư nhân siêu nhỏ, nhỏ và vừa phản ánh niềm tin kinh doanh còn thấp và bấp bênh ở Khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam. Thiếu niềm tin ở năng lực của bản thân, ở môi trường kinh doanh và sự bảo vệ của luật pháp khiến nhiều người tham gia kinh doanh chỉ nhằm mưu sinh và chỉ dám làm cầm chừng, cốt cho “đủ ăn” hơn là dám làm lớn hay làm ăn dài hạn
Mặc dù vậy, doanh nghiệp tư nhân trong nước quy mô lớn đã xuất hiện và tăng khá nhanh trong hơn một thập kỷ vừa qua, nhất là khi thị trường đất đai bùng nổ sau khi nước ta gia nhập WTO.
Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân Việt quy mô lớn nổi lên từ tập trung vào đầu tư, kinh doanh bất động sản và tích tụ tài sản từ đất, nhờ sử dụng mối quan hệ thân hữu với một số cá nhân và cơ quan nhà nước – nơi có quyền phân bổ đất đai là thứ tài nguyên được hiến định thuộc sở hữu toàn dân và do nhà nước quản lý, phân bổ.
Vài năm gần đây mới bắt đầu có một số quy mô lớn chuyển một phần đầu tư sang các lĩnh vực khác đa dạng hơn, như công nghiệp chế tạo, năng lượng, các dịch vụ ngân hàng, thương mại, vận tải, y tế, giáo dục…, kể cả một vài lĩnh vực công nghệ cao.
Về năng suất lao động, theo bà Lan, doanh nghiệp tư nhân thường được coi là có năng suất lao động cao hơn doanh nghiệp nhà nước, nhưng ở nước ta, khu vực “ngoài nhà nước” có năng suất thấp nhất và thua xa doanh nghiệp nhà nước và FDI.
Sự chênh lệch về nhiều mặt giữa khu vực kinh tế tư nhân với các doanh nghiệp thuộc khu vực doanh nghiệp nhà nước và FDI có nguyên nhân gốc rễ là môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế chưa thực sự được tạo lập.
Doanh nghiệp nhà nước dù gò bó chịu sự quản lý trực tiếp của nhiều cơ quan nhà nước nhưng được bảo hộ khỏi sự cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân trong nước và quốc tế, đồng thời được hưởng nhiều đặc quyền trong tiếp cận các nguồn lực và giành thương quyền trong các dự án có khả năng sinh lời cao. Còn FDI thì được quan tâm thu hút bằng nhiều cơ chế, tạo nên sự bất bình đẳng với khu vực kinh tế tư nhân.
Mặt khác, hiện tượng “lợi ích nhóm”, “doanh nghiệp sân sau”, “doanh nghiệp thân hữu” khá phổ biến những năm gần đây đã tạo ra môi trường cạnh tranh bất bình đẳng giữa doanh nghiệp thân hữu với doanh nghiệp không có quan hệ thân hữu.
“Trong một môi trường cạnh tranh bất bình đẳng như vậy, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam bị chèn ép nhiều bề nên rất khó có thể lớn lên được. Quyền tiếp cận các nguồn lực, thương quyền và cơ hội kinh doanh của họ bị thu hẹp, thậm chí bị tước đoạt bởi những doanh nghiệp được ưu đãi một cách không sòng phẳng.
Họ phải trả giá cao hơn cho nhiều tài nguyên và sản phẩm do những nhóm lợi ích thao túng thị trường, đặc biệt về đất đai, mặt bằng sản xuất-kinh doanh, chi phí vận tải…, làm đội giá thành và giảm lợi nhuận của họ. Biên lợi nhuận quá nhỏ bé và bấp bênh khiến khu vực kinh tế tư nhân càng khó có khả năng đầu tư phát triển và ít dám nghĩ đến làm ăn lớn hay lâu dài”, bà Lan nhấn mạnh.
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN PHẢI LÀ ĐỘNG LỰC TRONG NỀN KINH TẾ MỚI
Trước thềm Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII, hai mục tiêu tham vọng hơn đang được đưa ra: đến năm 2030, Việt Nam sẽ trở thành nước thu nhập trung bình cao – sớm hơn 5 năm so với khát vọng Việt Nam 2035, và năm 2045 sẽ trở thành nước thu nhập cao.
Theo bà Lan, hiện thực hóa khát vọng hay giấc mơ về một Việt Nam Thịnh Vượng đòi hỏi những nỗ lực phi thường và chuyển biến vượt bậc, đột phá, vượt lên chính mình của mọi người dân Việt Nam trước hết là của tầng lớp lãnh đạo. Đồng thời, để hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hay giấc mơ Việt Nam Thịnh Vượng, khu vực kinh tế tư nhân cần phải là một động lực quan trọng của nền kinh tế trong giai đoạn phát triển tới.
Để khu vực kinh tế tư nhân kinh tế tư nhân có thể trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế, có rất nhiều việc phải làm từ cả phía nhà nước và phía doanh nghiệp.
Việc quan trọng nhất của phía nhà nước là tạo lập một môi trường cạnh tranh thực sự bình đẳng, lành mạnh. Đây là tiền đề số 1, và cần được coi là trọng tâm của cải cách thể chế kinh tế trong những năm tới. Còn với khu vực kinh tế tư nhân, việc quan trọng nhất là nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, góp phần hiện đại hóa nền kinh tế để phát triển cao và bền vững trong mấy thập niên tới.
Vị chuyên gia kinh tế cho rằng, dù nhà nước đã khẳng định sự cam kết tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế, đảm bảo quyền tài sản của doanh nghiệp và người dân, tuy nhiên, có những quy định trong vô số các văn bản quy phạm pháp luật vẫn chưa tương thích với cam kết đó hoặc không đủ minh bạch, việc thi hành luật pháp, chính sách còn quá nhiều vấn đề…
Do đó, nhà nước cần thực hiện đầy đủ, thực chất chính sách về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, đặt khu vực này vào sân chơi bằng phẳng với doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân. Những ưu đãi tràn lan, quá mức, thiếu chính đáng, thiếu công bằng dành cho FDI và doanh nghiệp thân hữu phải được xóa bỏ.
Các chính sách ưu đãi của nhà nước dành cho doanh nghiệp cũng cần được bố trí lại, chủ yếu để khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động đổi mới sáng tạo, chuyển giao và ứng dụng công nghệ tiên tiến, đào tạo nâng cao kỹ năng, hoặc thông tin, tư vấn giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là MSMEs chuyển đổi, cùng nhau tạo lập hoặc tham gia các liên kết, các chuỗi cung ứng mới với giá trị gia tăng cao hơn.
Đối với bản thân khu vực kinh tế tư nhân, để có thể trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, việc quyết định nhất là khu vực kinh tế tư nhân phải nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của mình.
Dịch covid-19 đã tạo nên làn sóng chuyển đổi số cả kể doanh nghiệp nhỏ. Thách thức lớn nhất với doanh nghiệp vừa và nhỏ là khó khăn trong việc lựa chọn hướng đi mới, lựa chọn sản phẩm, công nghệ…
“Các doanh nghiệp rất cần cùng nhau tìm hiểu, nghiên cứu thị trường, dự báo tương lai, chia sẻ thông tin, giúp nhau định hướng lại và điều chỉnh chiến lược kinh doanh, trước khi bắt tay thực hiện sự đổi mới. Thay vì xin nhà nước cứu trợ, doanh nghiệp nên vận động nhà nước tập trung hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ và quản trị để phát triển”, bà Lan nhấn mạnh.
Nguồn dẫn: Kiều Linh/ Thời báo Kinh tế Việt Nam
Link bài gốc: https://vneconomy.vn/giac-mo-viet-nam-thinh-vuong-hien-thuc-hoa-doi-hoi-nhung-no-luc-phi-thuong-20201028155001823.htm