Theo TS. Chang-Hee Lee, vẫn còn quá sớm để đưa ra những dự báo chắc chắn đối với Việt Nam do chúng ta chưa có những số liệu phản ánh tác động toàn diện của đại dịch COVID-19 gây nên đối với doanh nghiệp và việc làm. Chúng ta cần đợi tới khi công bố kết quả cuộc Điều tra Lao động Việc làm và Doanh nghiệp do Tổng cục Thống kê đang thực hiện với sự hỗ trợ của ILO.
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM THỜI COVID-19
Vừa qua, ILO đã đưa ra những dự báo cập nhật về tình trạng mất việc làm và giảm số giờ làm việc nghiêm trọng trên toàn thế giới, ông có thể chia sẻ về tình hình tại Việt Nam theo dự báo của ILO?
TS. Chang-Hee Lee: Cũng đã có một số dự báo được đưa ra dựa trên kết quả khảo sát, chẳng hạn như Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự báo sẽ có 2 triệu việc làm có nguy cơ bị ảnh hưởng và khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết 50% các doanh nghiệp tại Việt Nam chỉ có thể tồn tại được tối đa 6 tháng nếu tình hình khủng hoảng kinh tế do đại dịch COVID-19 gây nên không được cải thiện. Nhưng hãy đợi đến khi kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê được công bố để có một bức tranh chính xác về hoạt động của doanh nghiệp và tình trạng mất việc làm.
Chắc chắn là chúng ta đang phải đối diện với một cuộc khủng hoảng việc làm lớn mà tất cả mọi thành phần, không chỉ có Chính phủ mà cả doanh nghiệp, công đoàn và người lao động, phải phối hợp với nhau để giảm thiểu những tác động do khủng hoảng gây nên.
TS. Chang-Hee Lee – Giám đốc ILO tại Việt Nam
Tuy nhiên, có một điều rất rõ ràng, hầu hết mọi quốc gia đang phải trải qua một thời kỳ thực sự khó khăn do cả thế giới phải đối mặt với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng chưa từng có, cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất kể từ Thế chiến thứ II. Với các biện pháp phong tỏa và giãn cách xã hội đang được áp dụng theo những hình thức khác nhau, khủng hoảng y tế toàn cầu đang nhanh chóng trở thành cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trên toàn thế giới.
Theo những ước tính mới của ILO, các biện pháp phong tỏa một phần hoặc toàn diện đã ảnh hưởng tới 2,7 tỷ người lao động, tức 81% lực lượng lao động toàn cầu. Bản báo cáo nhanh mới được ILO công bố tuần trước cho thấy số giờ làm việc trên thế giới sẽ giảm 6,7% trong quý II năm nay, tương đương 195 triệu người lao động làm việc toàn thời gian.
Khoảng 38% lực lượng lao động toàn cầu làm việc trong các lĩnh vực hiện đang chứng kiến sự sụt giảm nghiêm trọng về sản lượng, đi kèm với những nguy cơ cao phải sa thải lao động, giảm lương và giờ làm. Trong số đó có các ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống, sản xuất, thương mại bán buôn và bán lẻ, bất động sản và các hoạt động kinh doanh, vận tải và giải trí.
Ở Việt Nam, những lĩnh vực này hiện đang sử dụng hơn 22,1 triệu lao động, tức 40,8% tổng số việc làm của Việt Nam. Chúng ta không nói rằng tất cả những lao động này sẽ bị mất việc, chúng ta chỉ đang nói rằng họ đang làm việc trong những lĩnh vực có rủi ro cao, đang phải đối diện với những thách thức vô cùng lớn để duy trì sự sống còn của doanh nghiệp và duy trì lực lượng lao động.
Điều này cũng đem lại hàm ý chính sách rất quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp và người lao động tại Việt Nam. Đây là những lĩnh vực thâm dụng lao động và thường tuyển dụng người lao động được trả lương thấp và trình độ kỹ năng thấp. Đây cũng là những lĩnh vực mà phụ nữ chiếm phần đông. Điều đó có nghĩa rằng khủng hoảng do đại dịch COVID-19 gây nên ảnh hưởng nặng nề hơn đối với người lao động dễ bị tổn thương và lao động nữ.
Bốn lĩnh vực được xác định có nguy cơ bị tác động nặng nề nhất theo Báo cáo nhanh của ILO hiện sử dụng 44,1% số lao động nữ của Việt Nam (trong khi đó chỉ có 30,4% lao động nam đang làm trong các ngành nêu trên). Vì vậy, khi Chính phủ thiết kế các gói hỗ trợ cần phải đặc biệt chú trọng đến vấn đề này. Điểm đáng quan ngại là diễn biến tiếp theo của cuộc khủng hoảng này có thể sẽ làm suy yếu thêm vị thế của phụ nữ trên thị trường lao động.
Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào thương mại toàn cầu. Như thế nghĩa là nền kinh tế và thị trường lao động của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn so với nhiều quốc gia khác?
TS. Chang-Hee Lee: Một lần nữa tôi xin nhắc lại là chúng ta chưa có số liệu cập nhật và chính xác về thương mại của Việt Nam. Theo Tổ chức Thương mại Thế giới, khối lượng thương mại toàn cầu năm 2020 dự kiến sẽ giảm từ 13% đến 32%. Số liệu báo cáo về thương mại quý I của Việt Nam không quá tệ, xuất khẩu tăng 0,5%, nhập khẩu giảm 2% và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 8,55 tỷ đô la Mỹ. Nhưng đến cuối tháng 4 này chúng ta sẽ thấy rõ hơn tác động toàn diện của đại dịch COVID-19 đối với thương mại và đầu tư. Đã có những dấu hiệu cho thấy tình hình trong quý II sẽ tệ hơn nhiều, chẳng hạn như, không còn khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam, cùng với đó nhu cầu hàng hóa Việt Nam trên thị trường xuất khẩu giảm mạnh do hầu hết các nước đối tác thương mại đều đang áp dụng các biện pháp phong tỏa.
Cuộc khủng hoảng y tế-kinh tế toàn cầu đang diễn ra này nghiêm trọng ở chỗ nó tác động đến cả phía cung và cầu. Biện pháp phong tỏa được áp dụng rộng khắp ảnh hưởng nặng nề đến phía cung do nhiều nhà máy phải tạm ngừng hoạt động và đối với phía cầu do người tiêu dùng ở Hoa Kỳ và Châu Âu phải ở nhà. Vấn đề là Việt Nam phụ thuộc lớn vào thương mại toàn cầu. Vì vậy chúng ta có thể nói rằng cả doanh nghiệp và người lao động tại Việt Nam sẽ cảm nhận được rõ ràng và sâu sắc hơn nhiều những tác động của một nền thương mại toàn cầu đang bị thu hẹp lại.
Điều đó không có nghĩa là chiến lược hội nhập toàn cầu của Việt Nam đã không đúng. Ngược lại, chiến lược này đã được chứng minh là động lực tăng trưởng kinh tế chính cho câu chuyện phát triển thành công của Việt Nam. Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU sẽ mang đến cơ hội lớn, đặc biệt là cho công cuộc phục hồi nhanh hơn sau đại dịch COVID-19.
Nhưng khi thiết kế các chiến lược phát triển hậu COVID-19, Chính phủ có thể phải tính đến cách làm thế nào để các chuỗi cung ứng toàn cầu có khả năng chống chịu tốt hơn và làm thế nào để mở rộng các thị trường tiêu dùng trong nước, làm thế nào để hỗ trợ các ngành công nghiệp dịch vụ trong nước và tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam theo hướng linh hoạt hơn và có sức chống chịu cao hơn.
Thế còn đối với các lĩnh vực dịch vụ trong nước, các doanh nghiệp tư nhân trong nước, các cơ sở kinh doanh gia đình và nông hộ không trực tiếp liên kết với các chuỗi cung ứng toàn cầu thì sao, thưa ông?
TS. Chang-Hee Lee: Họ không chỉ có vai trò cực kỳ quan trọng trong thời kỳ gia tăng khủng khoảng kinh tế do COVID-19, khi nhu cầu toàn cầu đối với các doanh nghiệp Việt Nam sụt giảm nghiêm trọng do sự gián đoạn của các chuỗi cung ứng toàn cầu, mà còn đóng vai trò quan trọng trong mô hình tăng trưởng dài hạn hậu COVID-19.
Cùng với các khu vực Quốc doanh, các doanh nghiệp siêu nhỏ, cơ sở kinh doanh gia đình và nông hộ chính là loại hình kinh tế đã hỗ trợ nền kinh tế Việt Nam trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ. Họ có thể cung cấp chỗ dừng chân tạm thời cho những người lao động bị mất việc, phải trở về quê nhà, với làng quê. Họ là nguồn lực truyền thống giúp xã hội có khả năng chống chịu, và không may thay, họ sẽ lại phải một lần nữa thể hiện vai trò truyền thống này trong thời kỳ đỉnh điểm của khủng hoảng do COVID-19 gây nên.
Vấn đề ở đây là phạm vi và tốc độ khủng hoảng việc làm do đại dịch COVID-19 gây nên có thể lớn hơn rất nhiều so với khả năng gánh vác của hộ kinh doanh gia đình và nông hộ. Chính phủ cần có biện pháp hỗ trợ có tính mục tiêu thông qua các dạng thức khác nhau để người dân có thể vượt qua những thời điểm khó khăn nhất của khủng hoảng cho tới khi tình hình dần trở lại bình thường. Nói đến vấn đề này, những hình thức “giãn cách xã hội” nghiêm ngặt có lẽ cần phải dần được nới lỏng để các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ gia đình có thể cung cấp nguồn sống cho con người, cho khả năng chống chịu và bình ổn.
Tất nhiên, đó cần phải là “kinh doanh an toàn và lành mạnh” dưới sự chỉ dẫn rõ ràng về cách áp dụng giãn cách xã hội trong các hoạt động kinh doanh. Tôi nghĩ rằng Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và Hiệp hội các Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc này thông qua mạng lưới các hợp tác xã ở thành thị và khu vực nông thôn.
Về lâu dài, vấn đề quan trọng mang tính chiến lược là cần chính thức hóa các doanh nghiệp phi chính thức để mở rộng cơ sở tiêu dùng trong nước và hỗ trợ lĩnh vực dịch vụ trong nước. Một đất nước với gần 100 triệu dân cần xây dựng các thị trường nội địa thực chất do các doanh nghiệp trong nước dẫn dắt, đây là một trong những chiến lược hiệu quả nhất để giúp nền kinh tế Việt Nam có khả năng chống chịu với những cú sốc bên ngoài. Công cuộc chính thức hóa đi kèm với nhiều biện pháp bảo trợ xã hội khác nhau sẽ giúp xã hội Việt Nam có khả năng chống chịu tốt hơn trước những khủng hoảng y tế toàn cầu tương tự có thể xảy ra trong tương lai.
Thế còn đối với những lao động mất việc do khủng hoảng do COVID-19 gây nên thì sao? Theo Tiến sỹ, chúng ta cần phải làm gì?
TS. Chang-Hee Lee: Chúng ta vẫn chưa biết được chính xác mức độ khủng hoảng việc làm do chưa có kết quả điều tra lao động việc làm mới nhất tại thời điểm này. Nhưng đã có những dấu hiệu không tốt như tôi đã đề cập, như dự báo hơn 2 triệu lao động cả nước có nguy cơ bị ảnh hưởng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Chắc chắn là chúng ta đang phải đối diện với một cuộc khủng hoảng việc làm lớn mà tất cả mọi thành phần, không chỉ có Chính phủ mà cả doanh nghiệp, công đoàn và người lao động, phải phối hợp với nhau để giảm thiểu những tác động do khủng hoảng gây nên.
Các doanh nghiệp khác nhau thì lại có những cái khó khác nhau. Có những doanh nghiệp không thể tồn tại được do năng suất và khả năng cạnh tranh thấp dù có xảy ra khủng hoảng do COVID-19 hay không. Nhưng cũng có những doanh nghiệp khỏe mạnh trong điều kiện bình thường và có thể tồn tại lâu nếu họ nhận được sự hỗ trợ khi khủng hoảng do COVID-19 tăng đỉnh điểm nhằm nút lại lỗ hổng về tiền mặt, nguyên liệu thô và sự sụt giảm đột ngột trong nhu cầu và đơn hàng. Điều đó có nghĩa là hỗ trợ của Chính phủ cần nhắm tới các doanh nghiệp có triển vọng tích cực do họ hoạt động năng suất và đổi mới sáng tạo nhưng phải đối mặt với khủng hoảng tạm thời. Chính phủ nên đưa các doanh nghiệp này vào diện đối tượng mục tiêu của các gói hỗ trợ.
Tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng Chính phủ nên hướng sự hỗ trợ và các gói trợ giúp tới các doanh nghiệp nỗ lực nhất trong việc giữ người lao động và giảm thiểu mức độ sa thải bằng các biện pháp điều chỉnh thời giờ làm việc, chia sẻ công việc, đào tạo tại chỗ, giảm lương có sự tham khảo ý kiến của công đoàn và người lao động. Làm như vậy sẽ khuyến khích doanh nghiệp nỗ lực hết mình trong việc giữ người lao động và giảm thiểu mức độ sa thải, từ đó làm chậm quá trình sa thải, giảm thiểu cú sốc đối với xã hội mà khủng hoảng gây nên trong khi vẫn duy trì được năng suất của người lao động cho công cuộc phục hồi nhanh hơn hậu COVID-19.
Về khía cạnh này, tôi tin rằng điều quan trọng là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và VCCI cần phối hợp với nhau cùng ban hành hướng dẫn cho người sử dụng lao động và công đoàn trong việc quản lý khủng hoảng việc làm. ILO sẵn sàng hỗ trợ những sáng kiến như vậy.
NHẬN DIỆN NHÓM ĐỐI TƯỢNG DỄ BỊ TỔN THƯƠNG
Theo ông, những nhóm đối tượng nào trong thị trường lao động Việt Nam được xét là nhóm dễ bị tổn thương nhất trong tình hình hiện nay?
TS. Chang-Hee Lee: Các nhóm dễ bị tổn thương nhất gồm có người lao động làm công việc phi chính thức, lao động di cư và phụ nữ. Nhu cầu của họ cần phải được coi là vấn đề ưu tiên và cấp bách cần giải quyết.
Mặc dù tỷ lệ phi chính thức ở Việt Nam đã giảm, hơn 70% dân số có việc làm (bao gồm cả các việc làm nông nghiệp) vẫn đang làm các công việc phi chính thức. Phần đông những lao động này không được hưởng các hình thức bảo vệ cơ bản như khi làm những công việc chính thức, cụ thể là chế độ bảo vệ thu nhập, nghỉ ốm và chăm sóc y tế. Trong cuộc khủng hoảng COVID-19 này, họ có thể buộc phải tiếp tục làm việc hay không muốn tự cách ly khi cần, như vậy, họ tự đặt sức khỏe của bản thân vào tình thế nguy hiểm và có nguy cơ lây nhiễm cho thêm nhiều người. Đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất là lao động tự làm, lao động phi chính thức làm việc trong các lĩnh vực bị tác động nặng nề nhất, lao động giúp việc gia đình và lao động trong nền kinh tế GIG (nền kinh tế việc làm tự do).
Trong khi đó, lao động di cư trong nước, lực lượng chiếm 13,6% tổng dân số, thường làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức không có hợp đồng làm việc và không được tiếp cận với các chế độ bảo trợ xã hội. Lao động di cư trong nước thường làm việc trong những lĩnh vực bị khủng hoảng việc làm nặng nề nhất.
Bên cạnh đó, phụ nữ là đối tượng phải chịu gánh nặng của cuộc khủng hoảng lần này. Như tôi đã đề cập, bốn lĩnh vực ILO xác định có nguy cơ bị ảnh hưởng lớn nhất là dịch vụ lưu trú và ăn uống, sản xuất, thương mại bán buôn và bán lẻ, bất động sản và hoạt động kinh doanh hiện đang sử dụng 44,1% lao động nữ ở Việt Nam, trong khi tỷ lệ này đối với lao động nam chỉ là 30,4%.
Phụ nữ cũng là lực lượng đảm nhiệm các công việc chăm sóc ở tuyến đầu. Họ chiếm phần đông trong số hai triệu lao động gia đình không được trả lương. Đa phần họ là những người chăm sóc chính cho con cái và cha mẹ già. Họ cũng chiếm số đông trong các công việc thuộc các lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất (dệt may, giúp việc gia đình). Chính vì vậy, rất cần thiết phải đảm bảo cách có tính đến yếu tố giới trong các phản ứng chính sách.
Thêm vào đó, trẻ em cũng có thể bị ảnh hưởng do bố mẹ mất việc làm hay bị cắt giảm thu nhập. Khi xảy ra khủng hoảng, tình trạng bỏ học, suy dinh dưỡng, bóc lột lao động và lao động trẻ em có thể gia tăng nghiêm trọng dẫn đến những hệ quả lâu dài và không thể đảo ngược được đối với công cuộc phát triển nguồn lực con người.
Như Tiến sỹ đã chỉ ra, nhiều người lao động dễ bị tổn thương ít được tiếp cận với các chế độ bảo trợ xã hội trong đó có bảo hiểm y tế. Ông đánh giá thế nào về những hành động của Chính phủ liên quan đến bảo hiểm y tế?
TS. Chang-Hee Lee: Đảm bảo việc tiếp cận với dịch vụ chăm sóc y tế với chi phí phải chăng là vấn đề quan trọng trước hết để tránh tình trạng khiến người dân không tìm đến dịch vụ chăm sóc, xét nghiệm và được hưởng điều trị cần thiết nếu họ không thuộc diện được bảo hiểm. Đây là vấn đề thiết yếu để bảo toàn tính mạng và kiểm soát sự lây lan của dịch bệnh. Bảo vệ sức khỏe về khía cạnh tài chính cũng rất cần thiết để ngăn ngừa tình trạng bần cùng hóa của các cá nhân và hộ gia đình do phải bỏ tiền túi chi trả các chi phí chăm sóc y tế trực tiếp. Không chỉ liên quan đến vấn đề tài chính mà cũng cần thiết phải đảm bảo tiếp cận dịch vụ chăm sóc theo khu vực địa lý, đặc biệt là đối với những người ở khu vực nông thôn.
Hiện 90% dân số đã thuộc diện bao phủ của hệ thống Bảo hiểm Y tế của Việt Nam và người tham gia chỉ phải trả tối đa 20% chi phí (theo quy định của bảo hiểm y tế). Những người dễ bị tổn thương, trẻ em dưới 6 tuổi được miễn đóng bảo hiểm y tế và cơ chế cùng chi trả.
Tuy nhiên, 90% dân số đồng nghĩa với việc còn khoảng 10 triệu người không thuộc diện bao phủ của bảo hiểm y tế. Để bảo vệ mọi công dân, cần cân nhắc tạm thời triển khai bảo hiểm y tế toàn dân dù người dân có đang tham gia bảo hiểm y tế hay không và miễn cơ chế cùng chi trả cho tất cả mọi người. Làm như vậy sẽ góp phần khuyến khích việc tiếp cận dịch vụ y tế và hỗ trợ công tác phát hiện sớm, giảm nguy cơ lây lan của virus và giảm các ca bệnh diễn biến nghiêm trọng do điều trị chậm trễ.
Ông có đưa ra lời khuyên nào về một khung chính sách hiệu quả để đối phó với đại dịch không, thưa ông?
TS. Chang-Hee Lee: Tôi đánh giá cao việc Việt Nam đã bắt đầu đưa ra và triển khai các gói chính sách kích thích nề kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp, việc làm và thu nhập. Chắc chắn có thể có những lĩnh vực có thể làm tốt hơn. Nhưng tôi tin rằng gói hỗ trợ thông qua Nghị quyết mới của Chính phủ nhìn chung phù hợp với những khuyến nghị ILO đã đưa ra ở cấp độ toàn cầu đối với các phản ứng chính sách trên diện rộng và đồng bộ để đối phó với COVID-19 bao gồm: 1) kích thích nền kinh tế và việc làm, 2) hỗ trợ doanh nghiệp, việc làm và thu nhập, và 3) bảo vệ người lao động tại nơi làm việc. Khung chính sách đó sẽ giúp tăng cường khả năng hồi phục hậu COVID-19 bằng việc giảm thiểu những tác động tiêu cực lên con người cũng như tiềm năng phát triển kinh tế của tương lai. Tôi có ba điểm muốn nhấn mạnh.
Thứ nhất, trong tình hình hiện tại, doanh nghiệp nhiều khả năng sẽ phải cho thêm nhiều người lao động nghỉ việc – điều mà chúng ta đã bắt đầu nhìn thấy. Nếu không có biện pháp kiềm chế, điều này sẽ làm trầm trọng cuộc khủng hoảng xã hội, dẫn tới hút cả hệ thống đi xuống.
Điều quan trọng cần làm là tập trung duy trì việc làm, bằng cách hướng những hỗ trợ của Chính phủ tới những doanh nghiệp có thực hiện các biện pháp để giữ người lao động và bảo vệ sức khỏe của người lao động bằng các hình thức phân công công việc đảm bảo sức khỏe. Điều này sẽ giúp làm chậm lại và giảm thiểu cú sốc từ khủng hoảng việc làm. Để làm được điều đó, quan trọng là cần phải tổ chức đối thoại xã hội giữa doanh nghiệp và người lao động, và giữa cả hai bên với Chính phủ để tìm được hướng điều chỉnh dần dần đối với việc làm, số giờ làm việc và tiền lương, dựa trên cơ sở đồng thuận. Đối thoại xã hội có thể tạo ra niềm tin và sự tín nhiệm vào chính sách và các biện pháp mà Chính phủ và doanh nghiệp thực hiện nhằm giảm thiểu khả năng dẫn tới bất ổn xã hội. Điều đó sẽ giúp nền kinh tế hồi phục khi COVID-19 được khống chế. Về phương diện này, Việt Nam đã có một số sáng kiến hay, chẳng hạn như những gì Công đoàn Khu kinh tế Hải Phòng vừa thực hiện.
Tôi muốn nói thêm về mối liên quan giữa giữ việc làm, kinh doanh an toàn và thúc đẩy các ngành dịch vụ. Chẳng hạn, việc luân phiên lực lượng lao động theo ngày có thể vừa giúp giữ người lao động vừa thực hiện giãn cách xã hội. Hoặc nhà máy có thể chia ca làm việc, ví dụ một số người lao động bắt đầu từ 7 giờ sáng, một số khác lúc 11 giờ trưa, và tốp còn lại bắt đầu lúc 3 giờ chiều. Cách này có thể đảm bảo giãn cách xã hội không chỉ trong phạm vi nhà máy mà còn cả ở ngoài phố nữa, do người lao động cần di chuyển đến và đi từ nơi làm việc. Nó cũng tạo tác động tích cực, chẳng hạn đối với các ngành dịch vụ, bởi vì người lao động có thể đến nhà hàng, quán ăn, siêu thị, cửa hàng tạp hóa, trong các khung thời gian khác nhau phù hợp với thời gian làm việc của họ, nên có thể giúp tăng số lượng khách hàng và duy trì giãn cách xã hội ở các địa điểm đó. Điều này giúp đảm bảo kinh doanh an toàn, giữ việc làm và thúc đẩy tiêu dùng nội địa đồng thời.
Thứ hai, cần giảm thiểu tác động của các biện pháp kiềm chế dịch bệnh tới các doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ kinh doanh gia đình, nông hộ và khu vực nông nghiệp – nông thôn. Đó chính là những loại hình kinh tế đã giúp Việt Nam vượt qua thời kỳ chiến tranh và các cuộc khủng hoảng kinh tế trong quá khứ. Tuy nhiên, đại dịch hiện tại và các biện pháp giãn cách xã hội đang ảnh hưởng lớn tới khả năng khu vực kinh tế này đối phó với cú sốc kinh tế xã hội. Trong trường hợp sụt giảm mạnh nhu cầu của thế giới đối với hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam, hoặc chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gẫy, thì chính hàng triệu doanh nghiệp siêu nhỏ, đơn vị kinh doanh hộ gia đình và khu vực nông nghiệp – nông thôn mang lại sự hỗ trợ thay thế. Vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần tạo điều kiện để họ phát huy vai trò của mình trong giai đoạn quan trọng này, với sự hỗ trợ của Chính phủ.
Thứ ba, như tôi đã nói, bảo trợ xã hội cần được tiếp tục đóng vai trò ưu tiên trong các gói hỗ trợ kích thích, bao gồm cả các gói hỗ trợ trong tương lai, để củng cố các biện pháp đã được thực hiện nhằm bảo vệ người dân và sinh kế của họ.
Giờ chính là lúc chúng ta cần có cách tiếp cận cân bằng để đối phó với cuộc khủng hoảng kép này. Về phương diện sức khỏe cộng đồng, Việt Nam đã thể hiện là một trong những nước đi đầu trên thế giới. Đã đến lúc chứng tỏ rằng Việt Nam cũng xuất sắc như vậy trong giải quyết các thách thức về kinh tế, xã hội, và thị trường lao động. Tôi có niềm tin lớn rằng Việt Nam sẽ làm được. Cộng đồng quốc tế, trong đó có ILO và các tổ chức Liên Hợp Quốc, luôn sẵn sàng hỗ trợ các bạn.
Xin cảm ơn ông!
Theo Nhà đầu tư
Link gốc: https://nhadautu.vn/gap-go-thu-tu-ts-chang-hee-lee-chung-ta-dang-phai-doi-dien-voi-mot-cuoc-khung-hoang-viec-lam-lon-d36170.html