Theo chỉ đạo của Chính phủ, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam 2021-2030 đang được Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xây dựng và hoàn thiện. Tạp chí Nhà Đầu tư/Nhadautu.vn đã có cuộc phỏng vấn Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng xung quanh bản chiến lược quan trọng này.
Đánh giá của Bộ trưởng về bối cảnh trong nước và quốc tế trong thập kỷ tới, những yếu tố thuận lợi và khó khăn thách thức đối với kinh tế Việt Nam?
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Về bối cảnh trong nước, sau gần 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thế và lực của nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều; quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên; tính tự chủ của nền kinh tế được cải thiện; tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành phát triển kinh tế – xã hội. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội tăng lên.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, cơ cấu kinh tế bước đầu dịch chuyển sang chiều sâu, hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cho nền kinh tế được cải thiện đáng kể. Khu vực tư nhân đóng góp ngày càng lớn và trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Chính trị – xã hội ổn định, các lĩnh vực văn hoá, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại được quan tâm và có sự chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nêu trên, nền kinh tế vẫn còn những tồn tại, hạn chế; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; khả năng chống chịu, thích ứng với tác động bên ngoài còn yếu; năng lực tiếp cận nền kinh tế số, xã hội số còn hạn chế. Tăng trưởng GDP có xu hướng chững lại.
Bên cạnh đó, quá trình đô thị hoá tiếp tục diễn ra nhanh, tạo sức ép lớn về nhu cầu phát triển hạ tầng và xử lý ô nhiễm môi trường. Chênh lệch giàu – nghèo và trình độ phát triển giữa một số vùng, miền, địa phương có xu hướng doãng rộng. Tốc độ già hoá dân số tăng nhanh dẫn đến áp lực lên hệ thống an sinh xã hội và tác động đến tăng trưởng kinh tế. Các yếu tố an ninh phi truyền thống, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu… dự báo diễn biến khó lường. Đặc biệt, dịch bệnh COVID-19 có thể sẽ ảnh hưởng tiêu cực, kéo dài đến những năm đầu của thời kỳ Chiến lược.
Trong khi đó, bối cảnh quốc tế cũng đang đặt chúng ta trước cả cơ hội và thách thức phát triển lớn. Trong những năm tới, hoà bình, hợp tác, liên kết và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo nhưng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn rất phức tạp, gay gắt; cục diện đa cực ngày càng rõ nét. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh tuy có gặp nhiều trở ngại, thách thức; chủ nghĩa dân tuý, bảo hộ có xu hướng tăng lên. Tăng trưởng kinh tế thế giới và thương mại, đầu tư quốc tế có xu hướng giảm.
Đặc biệt, đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, gây ra suy thoái và khủng hoảng kinh tế toàn cầu, có khả năng kéo dài sang đầu thập niên 2020; làm thay đổi sâu sắc trật tự, cấu trúc kinh tế, phương thức quản trị toàn cầu, cách thức hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống xã hội của thế giới.
Phát triển bền vững trở thành xu thế bao trùm trên thế giới; kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh đang là mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn. Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn biến rất nhanh, đột phá, tác động sâu rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu. Xu thế đô thị hoá và phát triển đô thị thông minh ngày càng gia tăng. Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có vị trí trọng yếu trên thế giới, tiếp tục là động lực quan trọng của kinh tế toàn cầu, song tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định do cạnh tranh chiến lược, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên.
Bối cảnh trong nước và quốc tế nêu trên đang đặt ra cơ hội và thách thức chủ yếu với Việt Nam như sau:
Về cơ hội, trên cơ sở những thành tựu của 35 năm đổi mới, Việt Nam có cơ hội tận dụng bối cảnh phát triển thuận lợi trong và ngoài nước hiện nay để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vượt qua bẫy thu nhập trung bình, thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam có cơ hội tăng cường hội nhập và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế; tiếp cận, học hỏi và ứng dụng các mô hình kinh tế mới, nhanh chóng tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chuyển đổi số, nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Trong thời gian tới, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiếp tục diễn ra nhanh, ở nhiều lĩnh vực. Công nghệ và đổi mới, sáng tạo sẽ đóng góp nhiều hơn vào chuyển đổi mô hình tăng trưởng và đa dạng hóa cơ cấu kinh tế trong bối cảnh hậu COVID-19. Nhiều mô hình kinh tế mới (kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế ban đêm…) cũng được thử nghiệm nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đây là cơ hội lớn để Việt Nam tiến nhanh, bắt kịp các quốc gia phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, trong thập kỷ tới, Việt Nam cũng đối mặt nhiều thách thức phát triển lớn. Dù chúng ta đã đạt nhiều thành tựu vượt bậc trong thời gian qua, nhưng Việt Nam hiện vẫn là quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp, năng lực cạnh tranh chưa cao; mục tiêu xây dựng đất nước trở thành một nước công nghiệp còn nhiều thách thức. Khoảng cách phát triển, thu nhập bình quân đầu người còn kém xa nhiều nước, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu xa hơn về kinh tế với khu vực và thế giới. Ngoài ra, những vấn đề an ninh phi truyền thống, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu gia tăng, đặt ra nhiều thách thức lớn chưa từng có cho phát triển bền vững.
Bộ trưởng cho biết quan điểm xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của nước ta 10 năm tới (2021-2030)? Những điểm khác biệt so với chiến lược 2011-2020
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Quan điểm xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2021-2030 là kế thừa, bổ sung và phát triển các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trước, nhằm tạo ra một sự thống nhất, đồng bộ và xuyên suốt trong chủ trương phát triển của Đảng ta. Các quan điểm, định hướng, đột phá chiến lược, nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược phải dựa trên căn cứ lý luận vững chắc và sát hợp với tình hình thực tiễn; vừa kế thừa, phát huy những thành tựu của 35 năm đổi mới, vừa phải bổ sung, phát triển, bảo đảm phù hợp với xu hướng vận động trong nước và thế giới.
Một số điểm mới của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2021-2030 bao gồm: Xác định rõ mục tiêu phát triển đất nước cho thời kỳ Chiến lược, đến năm 2030 (kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng) cũng như tầm nhìn đến năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập nước).
Bổ sung các nội hàm của các đột phá chiến lược phù hợp với tình hình đất nước trong giai đoạn tới:
Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập.
Nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ và giá trị văn hóa, con người Việt Nam. Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.
Ưu tiên phát triển hạ tầng số và một số hạ tầng quan trọng khác. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, hiện đại, trọng tâm là ưu tiên phát triển hạ tầng trọng yếu về giao thông, năng lượng, công nghệ thông tin, đô thị lớn, hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu. Phát triển mạnh hạ tầng số, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, vùng, địa phương kết nối đồng bộ, thống nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số.
Đưa ra một số những định hướng phát triển mới:
Phát triển mạnh khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo là động lực chính của tăng trưởng kinh tế. Ứng dụng và phát triển công nghệ mới, ưu tiên công nghệ số, kết nối 5G và sau 5G, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối (blockchain), in 3D, Internet vạn vật, an ninh mạng, năng lượng sạch, công nghệ môi trường để chuyển đổi, nâng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế. Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy phát triển mô hình kinh doanh mới. Cho phép thực hiện cơ chế thử nghiệm chính sách mới, thúc đẩy triển khai và ứng dụng công nghệ mới, đổi mới sáng tạo, mô hình kinh doanh mới.
Thực hiện chuyển đổi số quốc gia một cách toàn diện để phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số.
Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong quản lý, quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đặc biệt, chú ý phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân tài cho phát triển kinh tế – xã hội. Khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân được phát huy các năng lực tự do sáng tạo trong đời sống kinh tế, xã hội.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả.Tập trung phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực, thế giới.
Phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân của người Việt Nam cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Xoá bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hoá công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế.
Có thể hình dung như thế nào về kinh tế Việt Nam 2030 và vị thế kinh tế Việt Nam trên bản đồ kinh tế thế giới, khu vực thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Việt Nam đến năm 2030 là một nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, có vị thế và uy tín cao trong khu vực và trên trường quốc tế, hướng đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả, trong đó môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu. Kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Việt Nam đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số. Mọi người dân được truy cập Internet băng thông rộng cáp quang với chi phí thấp, mạng di động 5G phủ sóng toàn quốc, và toàn nền kinh tế có sự thích ứng tốt với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Người dân được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, mức sống được nâng cao, trong một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an toàn, môi trường trong lành. GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2030 đạt khoảng 7.500 USD/người. Chỉ số phát triển con người (HDI) đạt trên 0,7, với tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi, trong đó thời gian sống khoẻ đạt tối thiểu 68 tuổi. Nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và sớm hoàn thành các mục tiêu theo Chương trình nghị sự 2030 vì phát triển bền vững (SDG).
Bộ trưởng có thể cho biết vai trò của đầu tư nước ngoài trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm tới, những thay đổi về định hướng thu hút đầu tư nước ngoài nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới?
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế. Do đó, đầu tư nước ngoài sẽ luôn được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với các khu vực kinh tế khác.
Định hướng thu hút đầu tư nước ngoài sẽ có nhiều thay đổi so với các giai đoạn trước đây, chuyển trọng điểm chính sách thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng, có giá trị gia tăng cao, lấy hiệu quả và công nghệ sử dụng làm thước đo chủ yếu, quan trọng nhất là đi cùng với bảo vệ môi trường, phát triển bền vững. Nâng cao hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài có trọng tâm, trọng điểm, có chọn lọc, ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, quản trị hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, kết nối chuỗi cung ứng toàn cầu, có tác động lan toả, kết nối chặt chẽ, hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước.
Việt Nam sẽ có những chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài có trọng tâm, trọng điểm hơn, đặc biệt Luật Đầu tư năm 2020 vừa được ban hành đã bổ sung nhiều ưu đãi đầu tư đặc biệt đối với các dự án có tác động lớn đến sự phát triển kinh tế như các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, quản trị hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, kết nối chuỗi cung ứng toàn cầu, có tác động lan toả, kết nối chặt chẽ, hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước.
Xin cảm ơn Bộ trưởng!
Nguồn dẫn: Nhà Đầu tư
Link bài gốc: https://nhadautu.vn/gap-go-thu-tu-bo-truong-nguyen-chi-dung-hinh-hai-chien-luoc-dan-duong-dat-nuoc-den-2030-d43792.html